Ao ương tôm thẻ giúp người nuôi tôm giám sát chặt chẽ tôm con. So với việc nông dân thả tôm giống vào ao trực tiếp, việc làm này khi xảy ra dịch bệnh nông dân sẽ không kiểm soát phát hiện xử lý kịp thời gậy ra hậu quả nghiêm trọng thậm chí mất mùa.
- Bằng cách sử dụng một hệ thống Bể ương tôm thẻ nuôi dưỡng chu đáo khi tôm còn quá nhỏ, nông dân có thể giám sát chặt chẽ tôm post, giúp giảm bệnh và theo dõi chặt chẽ vụ nuôi. Tôm dễ bị tổn thương nhất trong 40 ngày đầu tiên, và bằng cách không thả tôm post trong các ao lớn, nông dân có thể ngăn chặn sự lây lan của vi khuẩn xảy ra tự nhiên trong môi trường xung quanh. Cách làm này cải thiện tỷ lệ sống của tôm, tính bền vững của trang trại và thu nhập của nông dân. Đây là cách thực hành có tính quyết định nhất để nuôi tôm và những người nông dân kết hợp các ao ương dưỡng bên ngoài thành công hơn nhiều và làm giảm nguy cơ rủi ro.
- Vị trí đặt hệ thống ương: nằm gần hoặc kết hợp trong khu vực nuôi thương phẩm. Nguồn nước nên đến từ kênh cấp của trang trại hoặc trước các trạm bơm, cho phép việc thải nước và thoát ra kênh thoát chính không ảnh hưởng đến hoạt động của ao ương tôm thẻ.
- Nên làm bể tròn, nghiêng về chính giữa và có hố siphon để thu gom chất thải, ao vèo tôm thẻ được lót bạt đáy chống rò rỉ, phía trên có che kín lưới lan, chống sự xâm nhập của các loài động vật hay côn trùng, đồng thời giữ nhiệt độ trong ao ổn định.
Tôm thẻ chân trắng giống được ương trong bể từ 15 - 25 ngày tuổi, mật độ 3000 – 5000post/m3. Trong thời gian này, tôm được chăm sóc kỹ lưỡng, được cung cấp oxy liên tục; sau thời gian ương, tôm đạt kích cỡ theo yêu cầu thì sẽ được thả ra ao lớn. Ao nuôi tôm thịt cũng được thiết kế bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật, không chỉ xử lý nước, môi trường bảo đảm các tiêu chuẩn quy định mà còn được trải bạt từ đáy lên cao hơn bờ ao khoảng 50cm để ngăn không cho cua, còng hay các con vật gây hại vào ao; phía trên che lưới rào ngăn chim cò xuống ao. Điều quan trọng là trong ao vèo cũng như ao nuôi đều có hệ thống oxy đáy chạy suốt trong quá trình thả tôm nuôi, bảo đảm lượng oxy cho tôm nuôi mật độ cao.